Phân tích 2 câu thơ đầu Tỏ lòng chúng ta không chỉ cảm nhận được hình ảnh hùng dũng, lẫm liệt của người tráng sĩ mà còn như thấy hiện hữu trước mắt là tầm vóc mạnh mẽ và sức mạnh của quân đội nhà Trần.
Phân tích 2 câu đầu bài Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão gồm dàn ý chi tiết và 5 bài văn mẫu hay nhất được chúng tôi tổng hợp từ các bài làm hay của học sinh giỏi trên cả nước. Qua 5 bài văn cảm nhận 2 câu đầu Tỏ lòng này các bạn lớp 10 có thêm nhiều gợi ý tham khảo, trau dồi ngôn ngữ từ đó viết văn phân tích, cảm nhận ngày một hay hơn. Bên cạnh đó, các em có thể tham khảo phân tích bài Tỏ lòng để hiểu sâu sắc hơn về bài thơ. Nội dung chi tiết mời các bạn cùng theo dõi và tải tại đây.
Dàn ý phân tích 2 câu đầu bài Tỏ lòng
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm
– Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320), người làng Phù ủng, huyện Đường Hào (Nay là huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên), là con rể (lấy con gái nuôi) của Trần Hưng Đạo.
– Dẫn dắt 2 câu thơ cần phân tích
II. Thân bài: Phân tích nội dung 2 câu thơ đầu bài Tỏ lòng
Hai câu đầu
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
(Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi sông)
+ Hình ảnh người tráng sĩ đời Trần cầm ngang ngọn giáo trấn giữ đất nước được thể hiện qua những tầng bậc hình ảnh, ngôn từ.
– “Hoành sóc”: Cầm ngang ngọn giáo thể hiện tư tưởng hiên ngang, vững chãi, oai phong lẫm liệt, luôn sẵn sàng giáp mặt với kẻ thù
– “Hoành sóc giang sơn”: một hành động cụ thể của người tráng sĩ – trấn giữ non sông.
– “Cáp kỉ thu” (trải mấy thu): Con người xuất hiện với một tinh thần chiến đấu không hề mệt mỏi
=> Con người kì vĩ xuất hiện với một tư thế hiên ngang, khí thế bao trùm đất trời, sông núi, mang tầm vóc vũ trụ và mang đậm nét anh hùng ca.
+ Hành động lớn lao khí thế hào hùng của con người đời Trần
– “Tam tì hổ” – thủ pháp nghệ thuật so sánh → là sự cụ thể hóa sức mạnh đồng thời khái quát hóa tinh thần của đội quân mang hào khí Đông A và là hình ảnh tượng trưng cho sức mạnh của cả dân tộc.
– Hình ảnh ba quân với khí thế “nuốt trôi trâu”: đặt con người trong khung cảnh tưng bừng khí thế tiến công và dũng mãnh sẵn sàng chiến đấu, hi sinh. Con người xuất hiện trong bối cảnh thời gian và không gian rộng lớn. Không gian mở theo chiều rộng của núi sông và mở lên chiều cao của sao Ngưu thăm thẳm. Thời gian không phải đo bằng ngày bằng tháng mà đo bằng năm.
III. Kết bài:
– Người tráng sĩ đời Trần lồng trong hình ảnh đất nước thật đẹp, thật hoành tráng. Người tráng sĩ ấy vừa là sản phẩm của thời đại, vừa là sự thể hiện sức mạnh của dân tộc.
Cảm nhận 2 câu đầu bài Tỏ lòng – Mẫu 1
Phạm Ngũ Lão được biết đến là võ tướng có nhiều công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Bên cạnh đó ông còn rất ham đọc sách, làm thơ và được xem là người văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông hiện chỉ còn hai bài thơ là “Tỏ lòng” (Thuật hoài) và “Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương”. Đặc biệt, “Tỏ lòng” đã thể hiện vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng hiên ngang với lí tưởng và nhân cách lớn lao, đồng thời phản ánh hào khí của thời đại Đông A với sức mạnh và khí thế hào hùng.
Bài thơ “Tỏ lòng” (Thuật hoài) được làm bằng chữ Hán, sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Hai câu thơ đầu của bài thơ đã ca ngợi vẻ đẹp hào hùng của con người, quân đội thời Trần qua việc khắc họa hình tượng người anh hùng hiên ngang lẫm liệt:
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
(Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)
Với giọng điệu khỏe khoắn, bức phác họa người tráng sĩ hiện lên với tư thế hiên ngang, kiên cường trong bối cảnh không gian bao la rộng lớn. Đó là tư thế “hoành sóc” – cầm ngang ngọn giáo để trấn giữ biên cương, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ lãnh thổ. Người tráng sĩ ấy được đặt trong bối cảnh “giang sơn” rộng lớn, thời gian “kháp kỉ thu” muôn đời. Không gian rộng lớn mang tầm vũ trụ ấy cùng thời gian trải dài như bất tử hóa, thiêng liêng hóa tư thế hào hùng lẫm liệt của người anh hùng. Bản dịch thơ dù đã tạo âm hưởng uyển chuyển song chữ “múa giáo” không khắc họa đầy đủ tư thế vững chãi, hiên ngang của tướng sĩ. Câu thơ đầu tiên đã tái hiện vẻ đẹp người tráng sĩ trong tư thế sẵn sàng, oai phong trong không gian bao la, sẵn sàng lập nên những chiến công oanh liệt cho Tổ quốc. Không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp của người chủ tướng, hình ảnh quân đội nhà Trần cũng được diễn tả khéo léo trong câu thơ thứ hai – “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”.Ba quân được ví như “tì hổ” (hổ báo) và “khí thôn Ngưu” (khí thế át cả sao Ngưu). Bản dịch thơ dịch “khí thôn ngưu” là “nuốt trôi trâu” không hề sai, ca ngợi sức mạnh vô địch, khỏe khoắn của ba quân, tuy nhiên cách dịch “ba quân khí thế hào hùng át cả sao Ngưu trên trời” lại phóng đại, làm tăng hào khí của quân đội nhà Trần, giọng thơ như thế cất lên vừa hào sảng nhưng cũng rất giàu yếu tố thẩm mỹ. Câu thơ có sự kết hợp giữa những hình ảnh khách quan và những cảm nhận chủ quan của Phạm Ngũ Lão, góp phần miêu tả vẻ đẹp và hào khí dũng mãnh của quân đội nhà Trần.
Kết hợp cả hai câu thơ đầu, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp hùng dũng của người tráng sĩ cũng tầm vóc mạnh mẽ của quân đội thời đại Đông A, qua đó gián tiếp thấy được niềm tự hào của tác giả.
Phân tích 2 câu đầu bài Tỏ lòng – Mẫu 2
Thời đại nhà Trần là một trong những thời đại oai hùng nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam với chiến công ba lần đánh thắng quân Mông – Nguyên xâm lược. Nhắc đến chiến công ấy, ta không thể không nhớ tới Phạm Ngũ Lão – một danh tướng có nhiều công lao trong cuộc kháng chiến bảo vệ nước nhà.
Ngoài cương vị một võ tướng, ông còn thích đọc sách, ngâm thơ. Bài thơ “Thuật hoài” vừa khắc họa sinh động hình tượng người tráng sĩ thời Trần hiên ngang, bất khuất; vừa thể hiện khát vọng cao đẹp của chính tác giả.Ngay từ câu thơ đầu tiên, tác giả đã mở ra trước mắt người đọc một không gian bao la rộng lớn của sông núi. Cũng trong không gian mênh mông ấy, hình tượng người tráng sĩ thời Trần với tư thế hiên ngang, anh dũng sừng sững hiện lên. Người tráng sĩ ấy cầm ngang ngọn giáo để bảo vệ đất nước. Tư thế ấy, tầm vóc ấy như sánh ngang cùng giang sơn hùng vĩ.
Từ “hoành sóc” vừa khắc họa tư thế hiên ngang, bất khuất vừa tạo nên âm hưởng hào hùng. Người tráng sĩ canh giữ giang sơn không chỉ trong chốc lát. Thời gian dài đằng đẵng được tác giả nhắc đến qua ba từ “kháp kỉ thu” rất nhẹ nhàng. Thời gian mấy thu dung hòa với không gian và con người tạo nên bức tranh có chiều sâu trong đó nổi bật là hình tượng người tráng sĩ hiên ngang, anh dũng. Câu thơ thể hiện lòng tự hào của tác giả đối với vẻ đẹp của con người thời đại nhà Trần.
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”
(Múa giáo non sông trải mấy thu)
“Tượng đài” người tráng sĩ dưới ngòi bút của danh tướng họ Phạm còn đẹp và đầy khí thế hơn khi được đem so sánh với đất trời, vũ trụ. Tác giả đã lấy không gian bao la đo lòng dũng cảm, dùng thời gian vô tận thử ý chí. Con người được đặt giữa giang sơn non nước mênh mông mà không hề trở nên nhỏ bé. Bởi “kháp kỉ thu” không chỉ được hiểu là nhiều mùa thu, nhiều năm đã qua mà là thời gian trải suốt một đời người, một thế hệ con dân yêu nước, dùng xương máu, lòng hi sinh của mình đắp lên bờ cõi nước nhà.
Đến câu thơ thứ hai, nhà thơ khiến người đọc cảm nhận một cách rõ nét khí thế của tam quân. Khí thế ấy được đặc tả qua cụm từ “khí thôn ngưu” – khí thế nuốt trâu đầy dũng mãnh. Đội quân ấy chính là tập hợp những tráng sĩ cầm ngang ngọn giáo bảo vệ Tổ quốc.
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)
“Tam quân” với hào khí ngút trời, khí thế dũng mãnh, ý chí kiên cường có thể đánh tan mọi kẻ thù, bảo vệ vững chắc giang sơn. Hai câu thơ đầu hiện lên với khí thế hào hùng và vẻ đẹp của con người thời Trần. Nó cũng thể hiện lòng tự hào của Phạm Ngũ Lão về con người thời đại ông. nhà thơ đã bộc lộ cái tài sử dụng ngôn từ cô đọng, hàm súc, giàu ý nghĩa. “Khí thôn Ngưu” có hai cách hiểu. Một là quân đội nhà Trần hùng mạnh, khí thế đến mức át cả ngôi sao Ngưu trên bầu trời. Hai là sức mạnh của “tam quân” khi ra trận hiên ngang, mạnh mẽ như nuốt trôi trâu. Dù hiểu theo nghĩa nào, người đọc vẫn hình dung được tầm vóc, vẻ phi thường của tráng sĩ đời Trần. Cách miêu tả của tác giả lại một lần nữa là tấm gương sáng để các nhà thơ thế hệ sau học tập. Người đọc tiếp tục bắt gặp “hào khí Đông A” trong thơ của Hồ Chí Minh “Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu/ Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy”
Với bút pháp nghệ thuật xây dựng hình tượng người tráng sĩ mang hào khí đời Trần và ngôn ngữ thơ ngắn gọn, súc tích, “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão đã góp một làn gió thổi bừng những trang lịch sử chói lọi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của dân tộc.
Thời gian đã phủ một lớp bụi vô hình vào lịch sự, người tráng sĩ khắc trên vai chữ “sát Thát” năm nào nay cũng chỉ còn vang bóng và ngay cả tác giả cũng đã trở thành người thiên cổ. Thế nhưng, “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão sẽ luôn là một tác phẩm ghi dấu trong trái tim người đọc.
Phân tích 2 câu đầu bài Tỏ lòng – Mẫu 3
Âm vang của thời đại Đông A với những chiến công hào hùng trong lịch sử chống ngoại xâm với ba lần chiến thắng chống quân Nguyên Mông đã in đậm trên nhiều trang viết của các tác giả đương thời. Phạm Ngũ Lão- một danh tướng nhà Trần cũng gửi lại cảm xúc của mình qua bài thơ “Thuật hoài” (Tỏ lòng).
Dù chỉ vỏn vẹn hai mươi tám chữ nhưng tác phẩm “Tỏ lòng” đã thể hiện rõ hình tượng người tráng sĩ đời Trần với tư thế hùng dũng, hiên ngang và tấm lòng tận trung báo quốc. Hình ảnh đẹp đẽ ấy đã được bắt gặp luôn ngay ở hai câu thơ đầu:
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
(Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)
Trong phần dịch thơ, từ “hoành sóc” nghĩa là “múa giáo”, ý chỉ tư thế của người anh hùng đang cầm giáo gìn giữ và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, chỉ có từ “hoành sóc” mới có thể biểu lộ một cách rõ ràng nhất về tư thế hiên ngang, lẫm liệt – biểu hiện cho tinh thần sắt đá, anh dũng của vị anh hùng đang tràn đầy khí thế, luôn sẵn sàng xả thân vì dân vì nước. Tác giả không đề chủ ngữ là ai, nhưng người đọc vẫn hiểu những từ ngữ ấy chỉ dành cho anh hùng, cho những người đang tràn đầy khí thế chiến đấu chống lại kẻ thù. Họ không cần biết về không gian hay thời gian, bất kỳ nơi đâu trên “non sông” này đều là đất nước mình, và dù có “trải mấy thu” hay cả nghìn thu thì họ vẫn vậy, vẫn luôn một lòng một dạ chung thủy với nước nhà, luôn sẵn sàng hi sinh bất cứ khi nào để cứu lấy dân tộc mình. Và từ những người như vậy, đã tạo nên một đội quân vô cùng mạnh mẽ:
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
(“Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”).
Câu thơ trên có thể hiểu theo hai cách: cách hiểu như lời dịch và một cách khác là khí thế át sao Ngưu, nghĩa là khí thế át cả sao trời. Có lẽ, không có một từ ngữ nào có thể nói hết về chí khí hùng mạnh của quân đội nhà Trần, đến mức Phạm Ngũ Lão phải lấy cả sao Ngưu để thể hiện sức mạnh hùng dũng ấy.
Chỉ với hai câu tứ tuyệt chi mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm với khí thế dũng mãnh, sẵn sàng xả thân giết giặc cứu nước của đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.
Phân tích 2 câu đầu bài Tỏ lòng – Mẫu 4
Việt Nam, đất nước tuy bé nhỏ đầy những gian lao vất vả nhưng rất đỗi anh hùng đã trải qua bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước với những mốc son chói lọi trong lịch sử. Một trong những mốc son ấy chính là ba cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên xâm lược của vua tôi nhà Trần.
Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được ghi lại trong những áng văn chương kiệt xuất như: “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu, v.v… Đặc biệt và nổi bật hơn hết cả là tác phẩm “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão. Bài thơ là một khúc tráng ca hào hùng và mang nặng nỗi niềm của tác giả.
“Thuật hoài” là bản tuyên ngôn về lý tưởng của kẻ làm trai là chiến đấu để bảo vệ non sông đất nước đồng thời thể hiện khí thế, sức mạnh và khát vọng chiến thắng của một thời đại anh hùng. Bài thơ tiêu biểu cho quy luật văn chương nghệ thuật “Quý hồ tinh, bất quý hồ đa”
Mở đầu bài thơ là hình ảnh tráng lệ với âm hưởng hào hùng:
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”
(Múa giáo non sông trải mấy thu)
Bước vào thời đại chiến tranh ấy, cái thời mà ngọn lửa như thiêu đốt cả tâm hồn quyết tâm diệt tan kẻ thù xâm lăng bờ cõi, khẳng định lại một lần nữa: “Nam quốc sơn hà Nam Đế cư”! Và khi đó, xuất hiện tư thế hiên ngang của người anh hùng đất Việt “hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”. Câu thơ đầu tiên đã vẽ nên hình tượng oai phong lẫm liệt của người tráng sĩ với tư thế cầm ngang ngọn giáo sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tư thế ấy mang đậm tính tự hào rằng mình là người con đất Việt và sẵn sàng hi sinh để bảo vệ bờ cõi Việt, bảo vệ nhân dân Việt, bảo vệ non sông gấm vóc ngàn thu này. Hình ảnh lớn lao của người chiến sĩ đã sánh với tầm vóc bao la hùng vĩ của đất trời, lấn át cả khí thế của quân giặc. Đó còn biểu trưng cho lối sống cao đẹp cống hiến hết sức để bảo vệ đất nước một cách kiên trì, nhẫn nại. Dù bao nhiêu năm đi chăng nữa thì lí tưởng bảo vệ, khôi phục non sông vẫn mãi trường tồn.
Nếu câu thơ đầu thể hiện vẻ đẹp của con người với tầm vóc, tư thế, hành động lớn lao, kỳ vĩ mang tầm vóc vũ trụ thì câu thơ thứ hai tô đậm hình ảnh “ba quân” tượng trưng cho sức mạnh của quân đội nhà Trần và sức mạnh dân tộc Đại Việt lúc bấy giờ.
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)
Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời xuất phát từ câu “khí thôn Ngưu đẩu” hay đó chính là khí thể hùng mạnh có thể nuốt trôi trâu của tam quân thời Trần. Biện pháp nghệ thuật cường điệu hoá sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, có tính sử thi. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “Sát Thát” bất khả chiến bại mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:
Thuyền bè muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
…..
(Phú sông Bạch Đằng – Trương Hán Siêu)
Nếu tư thế của tráng sĩ với hình ảnh cây trường giáo như đo bằng chiều ngang của non sông thì tư thế của ba quân lớn mạnh đo bằng chiều dọc gợi không gian mở ra theo chiều rộng của núi sông và mở theo chiều cao đến tận sao Ngưu thăm thẳm. Con người kì vĩ như át cả không gian bao la, kì vĩ. Hình ảnh tráng sĩ lồng vào trong hình ảnh dân tộc thật đẹp có tính chất sử thi, hoành tráng. Đó chính là sức mạnh, âm vang của thời đại, vẻ đẹp của người trai thời Trần, là sản phẩm của “hào khí Đông A”. Nói cách khác, đó là hình ảnh con người vũ trụ, mang tầm vóc lớn lao. Con người ấy vì ai mà xông pha, quyết chiến? Tất cả xuất phát từ trách nhiệm, ý thức dân tộc và nền thái bình. Vì thế con người vũ trụ gắn với con người trách nhiệm, con người ý thức, bổn phận, con người hành động, đó chính là những biểu hiện của con người cộng đồng, con người xả thân vì đất nước.
Thuật hoài là một bài thơ Đường luật ngắn gọn nhưng hàm súc với thủ pháp gợi, thiên về ấn tượng, khái quát kết hợp với bút pháp hoành tráng mang âm hưởng sử thi đã khắc họa vẻ đẹp của người anh hùng hiên ngang, hùng dũng với sức mạnh lý tưởng lớn lao cao cả, tâm hồn sáng ngời nhận cách cùng khí thế hào hùng, quyết chiến quyết thắng của “hào khí Đông A”- hào khí thời Trần.
Phân tích 2 câu đầu bài Tỏ lòng – Mẫu 5
Đã từng một thời, văn học Việt Nam được biết tới như những con thuyền chở đầy ý chí và khát vọng cao đẹp của người đương thời, đó là những áng thi ca trung đại đầy hào sảng, hùng tráng. Bởi vậy chăng mà cứ mỗi lần từng tiếng thơ “Thuật hoài” vang lên, hiện lên trước mắt ta luôn là hình ảnh người tráng sĩ thời đại Lý – Trần với hùng tâm tráng chí sôi nổi, như những bức tượng đài đẹp nhất đại diện cho cả một thời đại đầy rực rỡ của phong kiến Việt Nam: thời đại Đông A.
Phạm Ngũ Lão đã khắc họa hình ảnh người tráng sĩ đời Trần trong một tư thế đặc biệt:
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”
Dịch nghĩa:
“Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu”
Người tráng sĩ ấy xuất hiện với hình ảnh đang cầm trên tay ngọn giáo trong tư thế “hoành sóc” (cầm ngang). Cách cầm ngang ngọn gió đã cho thấy sự vững vàng, hiên ngang, không có một chút gì nao núng. Tư thế ấy dường như còn thể hiện tinh thần chiến đấu của người chiến sĩ, sẵn sàng đối mặt với kẻ thù.
Từ “hoành sóc” khi kết hợp với “giang sơn” ở phía trước để tạo nên cụm từ “hoành sóc giang sơn” đã chỉ một hành động vừa cụ thể nhưng cũng vừa mang tính biểu tượng của người anh hùng, anh cầm trên tay vũ khí để giáp mặt với kẻ thù nhưng cũng chính với phương tiện là ngọn giáo ấy, người anh hùng cũng sẽ là người đảm đương trọng trách quan trọng là trấn giữ non sông.
Hai chữ “hoành sóc” giản đơn nhưng đã khắc tạc nên hình tượng người anh hùng mang tầm vóc của thời đại với sức mạnh dũng mãnh, kiên cường. Đó cũng chính là sức mạnh của con người, quân đội nhà Trần nói chung.
Nhiệm vụ giữ gìn “giang sơn” được toàn vẹn nói trên đã được người anh hùng thực thi với một tinh thần không mệt mỏi dù đã “cáp kỉ thu” (trải mấy thu). Phân tích hai câu thơ đầu Tỏ lòng ta sẽ thấy hình ảnh của người tráng sĩ như vậy không chỉ đẹp trong không gian rộng lớn của “giang sơn” mà còn là hình ảnh đẹp trải dài ra cả thời gian lịch sử.
Cứ thế với ngọn giáo cầm ngang trong tay, người anh hùng ấy không biết đã trải qua bao nhiêu mùa thu đảm nhận trách nhiệm nhưng vẫn hăm hở, nhiệt huyết. Câu thơ mang đậm chất anh hùng ca khi đã làm hiện diện trước mắt người đọc hình ảnh của một con người kỳ vĩ, xuất hiện với tư thế hiên ngang với khí thế bao trùm cả trời đất, sông núi, mang tầm vóc vũ trụ và bền vững với thời gian. Điều này phải chăng còn muốn diễn tả một ý nghĩa là bất chấp ở nơi nào và vào thời điểm nào…
Qua đây chúng ta nhận thấy rằng chỉ cần có bóng giặc ngoại xâm xuất hiện thì ở đất nước ta sẽ có những con người anh hùng như vậy ra tay hành hiệp trượng nghĩa để giúp nhân dân đánh tan bọn giặc ngoại xâm. Như vậy, dù có phải dấn thân vào chiến địa ở khu vực nào, dù phải đối diện với giặc ngoại xâm trong thời gian dài đến bao nhiêu, người anh hùng với tinh thần chiến đấu ngoan cường ấy vẫn không hề e dè, chùn bước.
Sau khi diễn tả hình ảnh oai phong, người anh hùng thời Trần còn được khắc họa rõ nét hơn bằng khí chất, sức mạnh của cả một tập thể:
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”.
Dịch nghĩa:
“Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu”
“Tam quân” nói lên cách chia binh lính của người xưa thành ba đội là tiền quân, trung quân và hậu quân, ở đây tác giả sử dụng để chỉ quân đội nói chung. Đặc biệt, khi nhắc về quân đội nhà Trần, tác giả lại đặt trong sự đối sánh với “hổ” để cho thấy sức mạnh hùng dũng, mạnh mẽ ấy. Đó cũng là sự khái quát hóa cho tinh thần Đông A của cả một đội quân và tượng trưng cho sức mạnh của cả dân tộc.
Cụ thể hơn, sức mạnh ấy của quân đội đã được tác giả cụ thể hóa bằng khả năng “khí thôn ngưu”. Phạm Ngũ Lão đã diễn tả khung cảnh tưng bừng với khí thế tiến công hùng hồn. Khí thế ấy có sức mạnh to lớn đến nỗi có thể lấn át cả trời cao, cả không gian và vũ trụ bao la, mênh mông.
Nếu như ở câu thơ đầu, tác giả đã làm cho con người xuất hiện trong không gian và thời gian rộng lớn thì đến câu thơ thứ hai, không gian ấy có lẽ lại càng được mở rộng hơn nữa bằng chiều cao của sao Ngưu thăm thẳm. Điều đó khiến cho hình ảnh của con người anh hùng trở nên kì vĩ, lớn lao hơn nữa bởi vì tầm vóc được đo bằng thước đo của vũ trụ, non sông.
Như vậy có thể thấy, qua hai câu thơ đầu, người đọc không chỉ cảm nhận được hình ảnh hùng dũng, lẫm liệt của người tráng sĩ mà còn như thấy hiện hữu trước mắt là tầm vóc mạnh mẽ và sức mạnh của quân đội nhà Trần và của cả dân tộc ta. Để diễn tả hiệu quả nội dung nói trên có thể kể đến sự thành công của tác giả trong việc sử dụng nghệ thuật so sánh, phóng đại trong một chất giọng vô cùng hào hùng và mạnh mẽ.
Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có một trái tim nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng trí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục rất sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại Thuật hoài đã làm vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão.